(Bài thơ hay đôi điều cảm
nhận-Sưu tầm)
CÁI RÉT ĐẦU MÙA…
( Chế Lan Viên)
Cái rét
đầu mùa anh rét xa em
Đêm dài
lạnh chăn chia làm hai nửa
Một đắp
cho em ở vùng sóng bể
Một đắp
cho mình ở phía không em.
(Rút từ Đối thoại mới, Nxb Văn học, H.1973)
1. Từ lúc ra đời đến nay, bài thơ Rét
đầu mùa nhớ người đi phía bể đã đồng hành với bao người đàn ông trong xa cách
nhung nhớ, đã thành thông điệp yêu thương của muôn vạn con tim trăn trở đêm
ngày… Đây là một trong những bài tứ tuyệt tiêu biểu nhất cho con người thi sĩ
Chế Lan Viên.
Con người thi sĩ ấy thế nào? Có lần
Chế Lan Viên tự hoạ: Anh là tháp Bay-on bốn mặt. Đó là ngon tháp kì vĩ
và không kém phần bí ẩn! Ta cũng có thể mượn cách nói của Ernest Hemingway để
nói rằng: Chế Lan Viên giống như một tảng
băng khổng lồ trong dòng thơ Việt Nam hiện đại vậy.
Chất trí tuệ, tài hoa, sự sắc sảo thông minh - những điều
người ta thường thấy và gọi tên lên - mới chỉ là … một phần nổi. Bảy phần chìm
cho phần nổi ấy toả sáng, ấy là tấm chân tình ngọt lịm. Phải thấy điều đó, bởi
dù là trí tuệ bậc nào đi nữa, thơ vẫn là thể loại trữ tình. Nhà thi sĩ của
chúng ta tinh lắm mà cũng tình
lắm, trí tuệ lắm mà cũng tâm hồn lắm, tràn đầy ánh sáng
nhưng cũng thấm đẫm phù sa! Sự quyện hoà xuyên thấm của những đặc tính
ấy đã thăng hoa thành nhiều thi phẩm đặc sắc. Sự sinh sôi nảy nở của một bài
thơ như Rét đầu mùa nhớ người đi phía bể trong tâm hồn các thế hệ độc
giả chẳng phải là một điều vu vơ. Bài thơ đã chinh phục chúng ta bằng chính
những phẩm chất thi nhân mà Phan Ngọc Hoan sở hữu!
2. Biểu hiện chuyển mùa dễ dàng nhận thấy nhất trong một năm đó là cái rét đầu
mùa. Chẳng ai có thể vô cảm với thời khắc này cả. Thậm chí người ta còn cảm
thấy rét khi đất trời vừa chớm lạnh. Và để giữ ấm trong lúc này, người ta thường
lật giở tấm chăn… Để ấm áp hơn, người ta cần người thân ôm ấp, che chở!...
Trong cảnh huống giá băng tràn mọi nẻo (Xuân Diệu), người chưa có đôi
thấy thiếu thốn cô đơn mà khát khao mong ước, người đã có đôi đang xa cách thì
da diết nhớ thương nhau. Chế Lan Viên đã thể hiện rất tinh tế và tài hoa nỗi
nhớ của người có đôi. Bài thơ là lời của người ở lại trong cái rét đầu mùa.
Cũng là tức cảnh sinh tình nhưng cảnh ở đây ngay lập tức đã chuyển hoá thành
tình và được bộc lộ trực tiếp thành… thơ:
Cái rét đầu mùa anh rét xa em
Đêm dài lạnh chăn chia làm hai nửa
Một đắp cho em ở vùng sóng bể
Một đắp cho mình ở phía không em.
Câu đầu mở ra trạng huống của chủ thể trữ tình: cái rét chợt về trong khi người
thân yêu gần gũi nhất lại đi xa. Nhưng không chỉ có thế, với chữ rét được
nhấn mạnh một cách có chủ ý, câu thơ còn thể hiện sự chuyển hoá tinh vi từ cảm
giác da thịt thành cảm giác tâm hồn. Cứ tưởng câu thơ chỉ thông báo một sự việc
không ngờ lại cho thấy hai thông tin: cái rét đầu mùa của thời tiết làm
anh rét và vì em đi xa khiến anh cô đơn mà anh rét xa em! Chữ rét
thứ hai là cảm giác tâm hồn. Chủ thể trữ tình đang thấu cảm sự thiếu vắng, nhớ
nhung. Chiều sâu của nỗi nhớ ấy được thể hiện rõ trong câu thơ thứ
hai:
Đêm dài lạnh chăn chia làm hai nửa
Anh rét xa em nhưng đêm dài lạnh vẫn chia chăn làm hai nửa! Đó không đơn
thuần là nhớ nhung nữa mà là mong ngóng hướng về, là sự lo lắng quan tâm!
Theo mạch cảm xúc ấy, câu chuyển – thứ ba tiếp tục bộ lộ tâm
trạng hướng về người đi xa, đồng thời chuẩn bị cho sự đột khởi tứ thơ:
Một đắp cho em ở vùng sóng bể
Hoàn toàn hợp logic, bởi ở trên chủ thể đã chia chăn làm hai nửa. Vậy là
cái chăn ấm hạnh phúc kia anh đâu chỉ dành lấy cho mình. Nằm một mình mà vẫn
chia chăn đắp cho em ở vùng sóng bể thì đúng là một tình nhân lý tưởng -
người ở luôn hướng đến người đi, người đi luôn hiện hữu trong tâm hồn người ở.
Chẳng ai có thể trách móc gì một tấm lòng như thế!
Đến câu kết, cụm từ một đắp cho được lặp lại. Người đọc dễ nghĩ đến một
sự phân chia cân bằng ( một đắp cho em - một đắp cho mình) và đễ
cho rằng Một đắp cho em ở vùng sóng bể là thơ rồi(!)… Nhưng, nếu thế thì
chỉ là thơ xoàng! Chế Lan Viên đem đến cho người đọc một cái kết bất ngờ và độc
đáo đúng nghĩa câu hợp trong một bài tứ tuyệt đích thực – khép lại một
bài thơ đồng thời mở ra một bầu trời đầy ý vị:
Một đắp cho mình ở phía không em.
Phía không em của anh đã trùng khít, đồng nhất với vùng sóng bể
nơi em đến. Vậy có nghĩa đắp cho mình mà kỳ thực là chỉ đắp cho em,
đắp cho em là đã đắp cho mình rồi. Đến đây, không những không thể
trách tình nhân này được gì mà tất cả chúng ta đều chỉ có thể cúi đầu thán phục
trước một lòng yêu thương chỉ biết dâng hiến, hi sinh!
Cái trục quyết định thành công của bài thơ là một phép chia tài tình. Nó kết
tinh được nét tài hoa, sắc sảo và tâm hồn đa cảm của người làm vườn vĩnh cửu.
Hết bài thơ, cái chăn vẫn nằm không trên giường chẳng ai đắp cả mà sao nghe ấm
áp lại lùng! Ai là người được ủ ấm đây? Là tình yêu chứ còn ai nữa! Bài thơ kết
lại bằng một tâm thế hướng về trọn vẹn, một nỗi nhớ hết lòng, để lại dư âm ngọt
ngào về lòng thuỷ chung, sự chăm sóc sẻ chia trong tình yêu và hạnh phúc gia
đình…
3. Bốn dòng thơ làm nên một số phận nghệ thuật đủ sức đi qua sự sàng lọc của
thời gian mà vẫn tươi nguyên sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại (Thi nhân Việt Nam ) quả là điều không
đơn giản!
Mùa đang chuyển… Gió… Và mưa… Không ngủ được, vì nhớ. Lúc thế này càng cảm thấu
và tri ân hồn thơ Chế Lan Viên!...
(Viết
lời bình: Nguyễn Thanh Truyền - GV THCS Bùi La Nhân)
LỜI THỈNH CẦU Ở NGHĨA TRANG ĐỒNG LỘC
(Đồng
Lộc, 5 – 7 – 1995- Vương Trọng)
Hàng
năm, cứ vào dịp lễ tết, hàng vạn lượt người đã về thăm Ngã ba Đồng Lộc – khu di
tích lịch sử ghi dấu những chiến công của lực lượng Thanh niên xung phong thời
chống Mỹ; nơi yên nghỉ của 10 Cô gái thanh niên xung phong huyền thoại. Nhân
ngày giỗ thứ 42 của các cô , xin được giới thiệu với bạn đọc bài thơ Lời thỉnh
cầu ở nghĩa trang Đồng Lộc của nhà thơ Vương Trọng với lời bình của thầy giáo
Nguyễn Thanh Truyền.
Mười
bát nhang, hương cắm thế đủ rồi
Còn
hương nữa hãy dành phần cho đất
Ngã
xuống nơi này đâu chỉ có chúng tôi
Bao
xương máu mới làm nên Đồng Lộc
Lòng
tướng nhớ xin chia đều khắp
Như
cỏ trong thung, như nắng trên đồi.
Hoa
cỏ may khâu nặng ống quần, kìa!
Ơi
các em tuổi quàng khăn đỏ
Bên
bia mộ xếp hàng nghiêm trang quá
Thương
các chị lắm phải không? Thì hãy quay về
Tìm
cây non trồng lên đồi Trọ Voi và bao vùng đất trống
Các
chị nằm còn khát bóng cây che.
Hai
mươi bảy năm qua chúng tôi không thêm một tuổi nào
Ba
lần chuyển chỗ nằm, lại trở về Đồng Lộc
Thương
chúng tôi, các bạn ơi, đừng khóc
Về
bón chăm cho lúa được mùa hơn
Bữa
ăn cuối cùng mười chị em không có gạo
Nắm
mì luộc chia nhau rồi vác cuốc ra đường.
Cần
gì ư? Lời ai hỏi trong chiều
Tất
cả chưa có chồng và chưa ngỏ lời yêu
Ngày
bom vùi tóc tai bết đất
Nằm
xuống mộ rồi, mái đầu chưa gội được
Thỉnh
cầu đất cằn cỗi nghĩa trang
Cho
mọc dậy vài cây bồ kết
Hương
chia đều trong hư ảo khói nhang.
Lời
bình:
Sự hi sinh của mười cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc mùa hè năm 1968 là hình ảnh bi
tráng của thế hệ trẻ Việt Nam thời đánh Mỹ. Đã có không ít thơ ca tưởng nhớ
mười nữ anh hùng. Nếu chọn vài bài thơ hay, sâu sắc và xúc động lòng người nhất
về đề tài này thì chắc chắn chúng ta không thể quên Lời thỉnh cầu ở nghĩa
trang Đồng Lộc của nhà thơ quân đội Vương Trọng.
Ngay từ tên gọi, bài thơ đã đưa người đọc vào một không khí rất trang nghiêm,
thành kính. Không khai thác tính chất bi tráng của hình tượng, tứ thơ của Vương
Trọng dẫn dắt người đọc tìm về những nẻo khuất tâm hồn mình một cách đầy bất
ngờ. Trong nhan đề bài thơ đã có sự định vị, đã thông báo không gian
nhưng đây không phải là lời thỉnh cầu của tác giả hay của ai đó khi đến viếng
thăm Ngã ba Đồng Lộc. Chủ thể của những lời thỉnh cầu kia là các liệt sĩ anh
hùng. Nhân vật trữ tình trong bài thơ là kiểu nhân vật trữ tình hoá thân. Đó là
điều tạo nên nét mới mẻ và độc đáo của tứ thơ.
Nhìn vào hình thức kết cấu, ta nhận thấy bài thơ được chia thành bốn phần tương
ứng với bốn điều thỉnh cầu của các cô. Đến với bài thơ này, hãy giữ tâm thế như
khi trở về với địa chỉ đỏ năm xưa, cứ theo trình tự của những lời thỉnh cầu ấy,
để lòng trí ta lắng nghe và cảm nhận.
Vì sao ta lại về với Đồng Lộc - mảnh đất miền núi xa xôi, cằn cỗi, nghèo nàn?
Ta trở về bởi lòng ta đã nhiều lần rưng rưng vì sự hi sinh đồng thời của mười
cô gái. Ta trở về bởi đã biết bao lần muốn nói lời cảm phục, tiếc thương. Ta
trở về bởi lòng tự hào được đặt chân lên con đường huyết mạch, đến dâng nén tâm
hương trước mười di ảnh anh hùng. Bao người về đây đều thành tâm khấn nguyện.
Nhưng tôi tin không ít người trong chúng ta chợt giật mình nhận ra bản thân
thật vô tình khi nghe lời thỉnh cầu đầu tiên:
Mười bát nhang, hương cắm thế
đủ rồi
Còn hương nữa hãy dành phần
cho đất
Ngã xuống nơi này đâu chỉ có
chúng tôi
Bao xương máu mới làm nên
Đồng Lộc
Lòng tướng nhớ xin chia đều
khắp
Như cỏ trong thung, như nắng
trên đồi.
Chúng ta hướng về các cô, dâng hương cắm đầy các bát nhang mà đôi khi quên dành
phần cho đất. Đã có hàng trăm con người hi sinh để giữ cho mạch máu Đồng
Lộc này thông suốt, thân xác họ đã vĩnh viễn hoà tan vào trong đất mẹ. Các cô
không muốn vì mình mà các chiến sĩ, các đồng đội thanh niên xung phong bị lãng
quên. Vì thế các cô mới xin các đoàn khách đến thăm hãy chia lòng
tưởng nhớ cho đều khắp. Lời các cô nghẹn ngào: Ngã xuống nơi này
đâu chỉ có chúng tôi / Bao xương máu mới làm nên Đồng Lộc. Đó là mong muốn
một lẽ công bằng tự nhiên; sự khiêm tốn, chân thành át đi giọng bi thiết. Mặt
đất cỏ lan, vùng trời toả nắng ở đây là hình ảnh biểu tượng của thanh bình. Các
cô đã chung hưởng đất trời với đồng chí, đồng đội nên các cô mong được hưởng
chung lòng tưởng nhớ. Đó là lời thỉnh cầu của các cô và cũng là sự lên tiếng
của lịch sử.
Đoạn thơ tiếp theo hướng đến đối tượng cụ thể:
Hoa cỏ may khâu nặng ống
quần, kìa!
Ơi các em tuổi quàng khăn đỏ
Bên bia mộ xếp hàng nghiêm
trang quá
Thương các chị lắm phải
không? Thì hãy quay về
Tìm cây non trồng lên đồi Trọ
Voi và bao vùng đất trống
Các chị nằm còn khát bóng cây
che.
Về Đồng Lộc, có rất nhiều đoàn khách thiếu nhi, các em đến đây còn bị hoa cỏ
may khâu nặng ống quần. Đồi Trọ Voi còn nhiều cỏ may nghĩa là đất đai còn
hoang sơ, môi trường còn thiếu sức sống. Cỏ may là một loài cỏ dại. Một đất
nước hoà bình, có điều kiện dựng xây, cần phải cải thiện môi trường sống. Như
những ngườì chị trong nhà, rất thân tình, các chị đã bày tỏ một mong muốn cao
cả, nhắn nhủ các em tìm cây non trồng lên đồi Trọ Voi và bao vùng đất trống.
Không quá sức đối với các em, đó là việc các em hoàn toàn có thể làm được - tuổi
nhỏ làm việc nhỏ mà! Thỉnh cầu đó sẽ được các em hăng hái thực hiện vì các
chị nằm còn khát bóng cây che.
Với thanh niên, các chị thỉnh cầu:
Hai mươi bảy năm qua chúng
tôi không thêm một tuổi nào
Ba lần chuyển chỗ nằm, lại
trở về Đồng Lộc
Thương chúng tôi, các bạn ơi,
đừng khóc
Về bón chăm cho lúa được mùa
hơn
Bữa ăn cuối cùng mười chị em
không có gạo
Nắm mì luộc chia nhau rồi vác
cuốc ra đường.
Câu đầu của khổ thơ này nói lên một nghịch lý đau thương ai cũng có thể hiểu và
thông cảm. Nhưng các cô không nói để sẻ chia mà nói để thỉnh cầu, nhắn nhủ. Lời
nhắn nhủ thật cảm động:Thương chúng tôi, các bạn ơi, đừng khóc/ Về bón chăm
cho lúa được mùa hơn. Thời đại của các cô là thời cả dân tộc nêu cao khẩu
hiệu biến đau thương thành hành động. Dân tộc đói nghèo, kháng chiến
gian khổ, ác liệt nên các cô quyết tâm sống, chiến đấu vì ấm no và hạnh phúc
cho dân tộc mình. Để lời nhắn nhủ tìm vào sâu thẳm những trái tim, các cô nhắc
đến một chi tiết chân thực đến đau xót về bữa ăn cuối cùng không có gạo. Các
bạn thanh niên đã hăng hái lao động sản xuất cho đất nước ta thu được những mùa
vàng, hãy nghĩ đến sự khốc liệt của đói khổ trong quá khứ, để quyết tâm xây
dựng tương lai đất nước phồn vinh.
Ba khổ thơ trên là những lời thỉnh cầu cho đồng đội, cho môi sinh, cho đất
nước. Vậy các cô cần gì cho bản thân mình? Các cô vĩnh viễn nằm lại đất
sâu ở lứa tuổi đẹp nhất đời người, khi tất cả chưa có chồng và chưa ngỏ lời
yêu. Sự hi sinh của những người con gái trong cái ngày đau thương ấy được
đặc tả bằng một hình ảnh chân thực đầy ám gợi: Ngày bom vùi tóc tai bết đất
/ Nằm xuống mộ rồi, mái đầu chưa gội được. Thiệt thòi và đau thương
là thế nhưng mong muốn của các cô thật quá khiêm nhường: Thỉnh cầu đất cằn
cỗi nghĩa trang / Cho mọc dậy vài cây bồ kết. Một loài cây hết sức quê
kiểng, gợi một thứ hương thơm thanh khiết rất đỗi quen thuộc với những người
con gái sông La yêu nước, yêu đời. Trong nghi ngút trầm hương của những tấm
lòng về đây tưởng nhớ, các cô thỉnh cầu một chút hương quê chia đều trong hư
ảo - một thỉnh cầu không hề gợn chút gì vị kỉ; một thỉnh cầu rất nữ tính,
thanh xuân.
Bài thơ nhắc nhủ mọi người khi tưởng nhớ quá khứ hãy biết sống vì hiện tại và
tương lai cho có ý nghĩa. Người đã hi sinh sẽ thanh thản, siêu thoát khi những
người còn lại và lớp kế tục không ngừng xây dựng, phát huy những gì dân tộc đã
giành được.
Lời thỉnh cầu ở nghĩa trang Đồng Lộc được viết bởi một nhà thơ mặc áo
lính. Chất lính, lí tưởng dân tộc và thời đại thấm sâu vào trong máu thịt nhà
thơ. Nên ở đây, khi hoá thân vào nhân vật, Vương Trọng đã tự tin thể hiện sự
sáng tạo độc đáo và ông đã thành công. Trong bài, tác giả không đóng vai trò
chủ thể trữ tình mà gián tiếp bộc lộ tư tưởng, tình cảm. Chính hình thức lời
thỉnh cầu gợi nên không khí thiêng liêng, thành kính, chuyển tải được những
thông điệp giản dị nhưng gần gũi, chân thành, cảm động và sâu sắc. Sức sống của
thi phẩm được biểu hiện cụ thể khi rất nhiều khách thăm viếng Đồng Lộc đã lắng
nghe, ghi chép và thuộc nằm lòng. Thơ có số phận như thế quả không nhiều!
(Viết
lời bình : Nguyễn Thanh Truyền-GV THCS Bùi La Nhân)